PHẦN 1 DỰ THẢO QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN ĐẾN NĂM 2020, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 P1
“Quy hoạch phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến năm 2010” được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2009 đã hết thời hiệu, cần một công cụ quản lý mới đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực quản lý nhà nước về Nghệ thuật biểu diễn trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Quy hoạch này được soạn thảo đáp ứng các yêu cầu:
- Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nghệ thuật biểu diễn thế giới trong bối cảnh các loại hình nghệ thuật biểu diễn đã và đang phát triển, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức sản xuất và thương mại.
- Đặt cơ sở cho đầu tư của nhà nước và các nguồn lực xã hội để nghệ thuật biểu diễn đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa ngày càng cao và đa dạng của công chúng; xây dựng, phát triển các đơn vị nghệ thuật; cải thiện điều kiện sáng tác, dàn dựng và phổ biến tác phẩm của các nghệ sỹ; phát triển các tài năng trình diễn.
- Đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế, nâng cao hơn chất lượng các hoạt động biểu diễn nghệ thuật trong sự cạnh tranh ngày càng tăng của thị trường trong nước và quốc tế, bảo vệ quyền tác giả và các quyền có liên quan; thúc đẩy giao lưu, hợp tác quốc tế.
Việc xây dựng Quy hoạch mới này là một bước cụ thể hóa Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, nhấn mạnh đến những hạn chế và giải pháp khắc phục trong sự nghiệp phát triển văn học nghệ thuật nói riêng để từng bước thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng, trong đó nghệ thuật biểu diễn có vị trí quan trọng, vừa là phương tiện biểu đạt, vừa là thành tố tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam; góp phần thúc đẩy nghệ thuật biểu diễn Việt Nam phát triển.
II. CƠ SỞ PHÁP LÝ
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới.
- Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
- Nghị định số 04/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
- Thông tư 03/2008/TT-BKH ngày 01 tháng 7 năm 2008 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 04/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 01 năm 2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội và Quyết định số 281/2007/QĐ-BKH ngày 26 tháng 3 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc ban hành Định mức chi phí cho lập, thẩm định quy hoạch và điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội, quy hoạch ngành và quy hoạch phát triển các sản phẩm chủ yếu.
- Thông tư số 01/2012/TT-BKHĐT ngày 09 tháng 02 năm 2012 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hướng dẫn xác định mức chi phí cho lập, thẩm định và công bố quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và sản phẩm chủ yếu.
- Nghị định số 79/2012/NĐ-CP ngày 05 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu.
- Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 05 năm 2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
- Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Phát triển văn hóa đến năm 2020.
- Quyết định 1211/QĐ-TTg ngày 5 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn hóa giai đoạn 2012-2015.
- Quyết định số 88/QĐ-TTg ngày 9 tháng 01 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ thuật) giai đoạn 2012 -2020.
- Căn cứ vào thực tiễn phát triển của lĩnh vực Nghệ thuật biểu diễn trong những năm gần đây.
1. Đối tượng
Đối tượng điều chỉnh của Quy hoạch (không phân biệt nghệ thuật biểu diễn nhà nước hay tư nhân; mọi lĩnh vực hoạt động nghệ thuật biểu diễn trong nước) sẽ bao gồm các lĩnh vực sau:
Các cơ chế, chính sách thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn;
Các hoạt động quản lý nhà nước, phát triển sự nghiệp trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn;
Các hoạt động, sản phẩm và dịch vụ của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn;
Các hoạt động giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
2. Phạm vi
Quy hoạch được phân kỳ thành các giai đoạn sau:
- Về thời gian, quy hoạch được phân kỳ thành các giai đoạn:
+ Giai đoạn 2014 đến 2020;
+ Định hướng đến năm 2030.
- Về không gian, nội dung của quy hoạch được phân bố không theo phân vùng kinh tế mà dựa trên 3 vùng văn hóa với những đặc trưng khác nhau về bản sắc văn hóa, loại hình nghệ thuật và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân, gồm:
+ Vùng Trung Bộ, gồm 19 tỉnh thành, chia thành 3 tiểu vùng gồm: Bắc Trung Bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế); Nam Trung Bộ (Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận); Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng)
+ Vùng Nam Bộ, gồm 19 tỉnh/thành, chia thành 2 tiểu vùng: Đông Nam bộ (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu); Đồng bằng Sông Cửu Long (Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau).
IV. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
- Tạo nền tảng và cơ sở để thống nhất sự phát triển Nghệ thuật biểu diễn trong những năm sắp tới phù hợp với Chiến lược phát triển văn hóa đến 2020 đã được Chính phủ phê duyệt, các định hướng phát triển Nghệ thuật biểu diễn gần đây của Đảng, nhà nước và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Dựa trên nền tảng nghiên cứu và phân tích thực trạng phát triển ngành Nghệ thuật biểu diễn những năm gần đây, coi đó là một trong những căn cứ để phát triển.
- Dựa trên các quan điểm phát triển tiên tiến trong Nghệ thuật biểu diễn thế giới, trên các kinh nghiệm quản lý nhà nước về Nghệ thuật biểu diễn của các nước.
V. PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG
Thu thập tài liệu: nhằm lựa chọn những tài liệu, số liệu, thông tin liên quan đến nội dung và đối tượng nghiên cứu để xây dựng chiến lược. Phương pháp này rất quan trọng, là tiền đề giúp việc phân tích, đánh giá tổng hợp các nội dung, đối tượng nghiên cứu khách quan và chính xác.
Phân tích tổng hợp: sử dụng trong phân tích, đánh giá toàn diện các nội dung, đối tượng nghiên cứu khi xây dựng quy hoạch: thực trạng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, giá trị sử dụng, hiệu quả sử dụng; hiện trạng trang thiết bị sản xuất, quảng bá tác phẩm, hiện trạng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ sáng tạo.
Điều tra, khảo sát thực địa: nhằm bổ sung hoặc kiểm tra lại những thông tin quan trọng cần thiết phục vụ quá trình phân tích, đánh giá và xử lý nguồn dữ liệu thu thập được. Qua phương pháp này xác định được cụ thể hơn vị trí, ranh giới, quy mô cũng như tầm quan trọng của các đối tượng nghiên cứu. Thực tế công tác thống kê các số liệu của ngành ngành nghệ thuật biểu diễn chưa thống nhất, hoàn chỉnh và đồng bộ, do vậy phương pháp nghiên cứu và khảo sát thực địa là không thể thiếu trong quá trình xây dựng quy hoạch.
Dự báo, chuyên gia: áp dụng để nghiên cứu toàn diện các yếu tố khách quan và chủ quan; các yếu tố trong nước và quốc tế; các yếu tố trong và ngoài lĩnh vực; những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển Nghệ thuật biểu diễn. Trên cơ sở đó dự kiến đầu tư hệ thống trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực.
VI. NỘI DUNG QUY HOẠCH
Văn bản quy hoạch được kết cấu thành các phần:
1. Mở đầu;
2. Phần thứ nhất: Thực trạng và các yếu tố tác động;
3. Phần thứ hai: Quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển nghệ thuật biểu diễn đến 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
4. Phần thứ ba: Giải pháp và tổ chức thực hiện.
Phần thứ nhất
THỰC TRẠNG VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn gồm sân khấu, biểu diễn ca múa nhạc, tạp kỹ…, là loại hình đặc biệt của hoạt động văn hoá, là lao động sáng tạo của nghệ sỹ phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Gần đây, với sự xuất hiện các loại hình mới, nghệ thuật biểu diễn đã có thêm trình diễn thời trang, thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu; tổ chức sự kiện.
Nội dung đánh giá thực trạng của Quy hoạch sẽ đi sâu phân tích các cơ chế chính sách; tổ chức bộ máy; nguồn nhân lực; cơ sở vật chất và trang thiết bị; tài chính; các phương thức hoạt động, chất lượng các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn; thị hiếu thẩm mỹ và xu hướng hưởng thụ của khán thính giả; xã hội hóa các hoạt động nghệ thuật biểu diễn; hợp tác quốc tế… Quá trình đánh giá sẽ gắn với việc xác định các yếu tố tác động đến lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
I. THỰC TRẠNG
1. Đánh giá quá trình thực hiện Quy hoạch phát triển NTBD Việt Nam đến 2010
Ngày 28/3/2008, Quy hoạch phát triển Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến 2010 đã được ban hành theo Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Quy hoạch đã xác định các mục tiêu đối với nghệ thuật truyền thống và nghệ thuật hiện đại, các loại hình mũi nhọn của hai loại nghệ thuật này, xác định các biện pháp sưu tầm, phục hồi, củng cố và phát triển một số loại hình có nguy cơ thất truyền như: Rối nước, Ca trù, Chầu văn, hát Xẩm, làn điệu dân ca một số dân tộc thiểu số... ; xây dựng chân dung các nghệ sĩ tiêu biểu; đầu tư dàn dựng những tác phẩm có chất lượng nghệ thuật của thế giới.
Quy hoạch cũng xác định các nội dung về đào tạo nguồn nhân lực; nâng cao chất lượng tác phẩm; nâng cao hưởng thụ nghệ thuật của khán giả trong nước và tăng cường giao lưu quốc tế; phối hợp với truyền hình để nghệ thuật biểu diễn Việt Nam chiếm tỷ lệ 70% thời lượng phát sóng truyền hình, tăng cường phát thanh trên đài quốc gia và các làn sóng bằng tiếng dân tộc thiểu số; giới thiệu nghệ thuật biểu diễn một cách có hệ thống và hiệu quả; nâng cao chất lượng các hội thi, hội diễn, liên hoan nghệ thuật. Đồng thời, Quy hoạch đã nhấn mạnh việc tăng cường quản lý các loại hình văn hoá phẩm; xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư đổi mới trang thiết bị cho hoạt động biểu diễn theo hướng sử dụng trang thiết bị hiện đại; cải tạo, nâng cấp các rạp hát hiện có, xây dựng mới một số nhà hát, trung tâm văn hoá để cải thiện điều kiện phục vụ nhân dân thưởng thức nghệ thuật; xây dựng và hoàn thiện các chế độ chính sách, và đẩy mạnh công tác xã hội hoá hoạt động nghệ thuật biểu diễn.
Với hơn 2 năm triển khai thực hiện Quy hoạch, có thể đánh giá một số mặt đạt được và những tồn tại sau:
- Định hướng một cách tổng quát cho sự phát triển ngành nghệ thuật biểu diễn trên các lĩnh vực. Sắp xếp tổ chức bộ máy, đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng tác phẩm và chất lượng đào tạo đội ngũ nghệ sĩ trong các đơn vị nghệ thuật. Bước đầu thiết lập mối liên kết, phối hợp của các Bộ, ngành để xây dựng chế độ chính sách, nguồn lực tài chính, quan hệ giao lưu hợp tác tạo điều kiện cho nghệ thuật biểu diễn phát triển.
- Hạn chế căn bản của Quy hoạch là tính hiệu lực quản lý nhà nước là chưa cao, không bao quát các lĩnh vực mới đang nảy sinh, đặc biệt là tính thương mại của nghệ thuật biểu diễn. Sự phối hợp liên ngành để giải quyết về chế độ chính sách còn chưa theo kịp với yêu cầu phát triển. Công tác huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho nghệ thuật biểu diễn còn hạn chế.
- Việc sắp xếp mạng lưới các đoàn nghệ thuật theo hướng xã hội hóa và các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập còn lúng túng, với tất cả các đơn vị nghệ thuật trung ương, các đơn vị nghệ thuật địa phương và các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập.
- Công tác đào tạo nhân lực chưa có sự đổi mới mang tính đột phá. Chất lượng đào tạo, nguồn đào tạo cho nghệ thuật truyền thống đang có những khó khăn lớn về khả năng thu hút học sinh, duy trì việc học trong suốt quá trình học và có việc làm sau khi ra trường.
2. Cơ chế chính sách
a) Hệ thống văn bản quản lý nhà nước
So với một số ngành trong khối nghệ thuật, nghệ thuật biểu diễn đang thiếu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đủ mạnh nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, nghệ thuật, văn hóa, chính trị, kinh tế trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn và sự phát triển của toàn ngành.
Năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2012/NĐ-CP quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu gồm 5 chương, 31 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Đây là văn bản pháp quy có tính pháp lý cao nhất của ngành. Tuy nhiên sau hai năm triển khai đã xuất hiện một số điểm bất cập cần phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới. Một số quy định hiện hành như Nghị định 61/2002/NĐ-CP về chế độ nhuận bút; Thông tư số 08/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính về "hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định chương trình biểu diễn nghệ thuật"; Thông tư liên Bộ giữa Bộ Tài chính - Bộ Văn hóa số 1042/TTLB-VH-TC về cơ chế quản lý tài chính và chính sách tài trợ của nhà nước đối với các đơn vị Nghệ thuật biểu diễn; Thông tư liên tịch giữa Bộ Văn hóa, Thông tin - Bộ Tài Chính - Bộ Nội vụ số 94/2006/BVHTT-BTC-BNV về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định số 180/2006/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi theo nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật ngành văn hóa - thông tin đã không còn phù hợp với thực tiễn, cần phải điều chỉnh trong thời gian tới.
b) Chính sách tiền lương
Hiện nay, ngạch lương diễn viên có 03 hạng: Diễn viên hạng I (17.157), diễn viên hạng II (17.158) và diễn viên hạng III (17.159), nhưng chưa ban hành tiêu chí cụ thể để xếp ngạch lương. Theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó thang lương của người hoạt động Nghệ thuật biểu diễn gồm ba hạng (hạng I, hạng II, hạng III) với 26 bậc. Việc thiết kế thang lương quá nhiều bậc như vậy không phù hợp với đặc thù của hoạt động nghệ thuật bởi thời gian đào tạo dài, tuổi nghề ngắn trung bình 15 - 20 năm. Việc xếp lương khởi điểm (2,06), thấp hơn mức lương khởi điểm trong bảng lương viên chức (đại học 2,34), tại những đơn vị nghệ thuật trung ương, cho các đối tượng mới ra trường, không phân biệt trình độ trung cấp, đại học, là một bất cập.
Việc nâng ngạch từ hạng III lên hạng II không được thực hiện. Chỉ có những diễn viên chuyển sang quản lý mới được hưởng mức lương diễn viên hạng II (17.158). Không có diễn viên nào được hưởng hạng I (17.157). Trong khi các ngạch viên chức khác có đầy đủ các loại từ B đến A (A0, A1, A2, A3) tương đương với các trình độ đào tạo khác nhau (trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) thì ngạch “diễn viên” chỉ có 03 hạng. Hầu hết đạo diễn, biên kịch, nhạc sỹ, diễn viên có thời gian cống hiến dài, đạt nhiều thành tích trong các cuộc thi cấp quốc gia, quốc tế, được phong các danh hiệu cao quý vẫn ở ngạch diễn viên hạng III và không có triển vọng được nâng ngạch. Nhiều người đã vượt khung lương hạng III từ gần 20 năm vẫn không được thi nâng ngạch.
c) Chế độ phụ cấp nghề và bồi dưỡng luyện tập biểu diễn
Quyết định số 180/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp ưu đãi nghề và bồi dưỡng đối với lao động biểu diễn nghệ thuật ngành văn hóa-thông tin và Thông tư liên tịch số 94/2006/TTLT/ BVHTT-BNV-BTC hướng dẫn thực hiện đã quá lạc hậu về định mức chi, mức phụ cấp nghề nghiệp, bồi dưỡng luyện tập và biểu diễn. Nhà nước hiện đang áp dụng hình thức khoán chi cho các nhà hát trực thuộc Bộ, mỗi nghệ sĩ được nhận thêm một khoản về thanh sắc và chỉ áp dụng đối với các nghệ sĩ trong biên chế. Nhiều đơn vị đã mời thêm các nghệ sĩ trẻ làm theo chế độ hợp đồng với mức lương cố định khoảng 1,5 triệu đồng/tháng (sau khi đã trừ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế), không thu hút được họ gắn bó lâu dài với nghề. Nhiều đơn vị nghệ thuật không có đủ nguồn thu để thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính trong việc chi trả bồi dưỡng luyện tập và phụ cấp nghề.
d) Chế độ nhuận bút
Nghị định số 61/2002/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ nhuận bút và Thông tư liên tịch số 21/2003/TTLT-BVHTT-BTC của Bộ Văn hóa - Thông tin và Bộ Tài chính hướng dẫn việc chi trả chế độ nhuận bút, trích lập và sử dụng quỹ nhuận bút, quy định khung nhuận bút chi trả cho các tác giả trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật đang có những bất cập trong việc thi hành. Tại một số thành phố lớn, các đoàn nghệ thuật có nguồn thu cao cho rằng khung nhuận bút trong Nghị định là quá thấp. Nhưng một số tỉnh cho rằng, mức quy định trong Nghị định 61 là cao, ngân sách địa phương không có khả năng chi trả. Cho nên, nhiều đơn vị không áp dụng khung nhuận bút này, mà thực hiện chi trả nhuận bút theo sự thỏa thuận với tác giả thông qua hợp đồng dân sự. Một số loại hình nghệ thuật mới chưa có khung quy định về nhuận bút như Nghệ thuật đường phố, các chương trình sự kiện và lễ hội nghệ thuật.
e) Chế độ bảo hiểm xã hội
Tuổi lao động: Do đặc điểm đào tạo diễn viên và tính đặc thù về năng khiếu nghệ thuật, nên đối tượng này nên đề nghị Chính phủ cho phép các đơn vị nghệ thuật được tuyển dụng vào ngạch viên chức thuộc ngành văn hóa, nghệ thuật theo “ngành nghề đặc biệt, tuổi dự tuyển có thể thấp hơn 18 tuổi nhưng phải từ đủ 15 tuổi trở lên và có thể trên 45 tuổi nhưng không được quá 50 tuổi” và thực hiện ký hợp đồng làm việc đặc biệt được quy định tại Điều 15, Nghị định số 116/2003/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
Tuổi nghề: Với tính đặc thù riêng của từng ngành biểu diễn nghệ thuật (diễn viên) nên thời gian hoạt động biểu diễn của nghệ sĩ, diễn viên rất ngắn khoảng từ 15 năm đến 20 năm; đến độ tuổi từ 30 đến 40 đối với nữ và 40 đến 45 đối với nam ở một số loại hình biểu diễn thì không thể đáp ứng được đòi hỏi về chuyên môn. Do đó, tuổi nghề của nghệ sĩ, diễn viên rất ngắn, cần sửa đổi theo đúng đặc thù ngành.
g) Chính sách thẩm định các tác phẩm nghệ thuật
Hiện có 2 văn bản liên quan đến chính sách thẩm định các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn và chương trình băng đĩa, là Thông tư 121/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp và dán nhãn kiểm soát băng đĩa hình có chương trình, phí thẩm định chương trình trên băng đĩa, phần mềm và trên vật liệu khác; Thông tư 122/2013/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định kịch bản phim, phim, chương trình nghệ thuật biểu diễn; lệ phí cấp giấy phép đủ điều kiện kinh doanh, sản xuất phim, cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện, cơ sở điện ảnh nước ngoài tại Việt Nam. Việc điều chỉnh các mức thu phí thẩm định lên một mức mới là phù hợp với thực tiễn quản lý ngành.
h). Chính sách đấu thầu đặt hàng tác phẩm
Các hoạt động biểu diễn nghệ thuật sử dụng ngân sách nhà nước chưa thực hiện đấu thầu. Các hoạt động thường xuyên được cấp theo kế hoạch hàng năm và hoạt động không thường xuyên được cấp theo cơ chế bổ sung. Với 2 phương thức hoạt động trên không thể thực hiên đúng với Luật đấu thầu số 61/2005/QH-XI và Quyết định số 39/2008/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước, trong đó, tại danh mục số 9 và 17 quy định các dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước, có ghi các dịch vụ sau đây phải thực hiện đấu thầu, đặt hàng bao gồm: Sáng tác, dựng vở và biểu diễn các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ của Nhà nước; Tổ chức Lễ khai mạc, bế mạc phục vụ các ngày lễ lớn của nhà nước, tổ chức các đại hội thể thao, văn hóa… (bao gồm dịch vụ hậu cần, phục vụ).
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch và Bộ Tài chính đã phối hợp xây dựng Thông tư quy định về đấu thầu, đặt hàng, cung cấp dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Thông tư này chưa được ban hành vì phải chờ Luật Đấu thầu sửa đổi dự kiến ban hành trong năm 2014.
3. Tổ chức bộ máy
a) Cơ quan quản lý nhà nước
Theo Nghị định số 76 /2013/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với lĩnh vực Nghệ thuật biểu diễn. Cục Nghệ thuật biểu diễn là cơ quan của Bộ có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn, hoạt động sản xuất, phát hành băng, đĩa ca múa nhạc sân khấu, văn học; chỉ đạo và hướng dẫn hoạt động phát triển sự nghiệp nghệ thuật biểu diễn trong cả nước. Chức năng quản lý nhà nước của các địa phương được giao cho Uỷ ban nhân dân và Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp, khả năng định hướng và quy hoạch dài hạn ở các địa phương là còn hạn chế.
b) Các đơn vị nghệ thuật
Cả nước có 12 đơn vị nghệ thuật trực thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, trong đó có 1 đơn vị đã hoạt động theo cơ chế tự chủ, 11 đơn vị hoạt động bằng ngân sách nhà nước cấp. Cục Nghệ thuật biểu diễn không trực tiếp tham gia thẩm định kinh phí, xây dựng tổ chức bộ máy và bổ nhiệm cán bộ nên vai trò quản lý nhà nước của Cục Nghệ thuật biểu diễn đối với các đơn vị nghệ thuật trực thuộc Bộ là hạn chế. Hiện nay có 8 đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, 2 đơn vị trực thuộc Bộ Công an. Toàn bộ cơ cấu tổ chức bộ máy, khuynh hướng hoạt động, phương pháp sáng tạo nghệ thuật của các đơn vị này do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đảm nhiệm.
Toàn quốc có 103 đơn vị nghệ thuật thuộc Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Phần lớn mỗi tỉnh có từ 1 đến 2 đơn vị, riêng thành phố Hồ Chí Minh có 8 đơn vị, Hải Phòng có 5 đơn vị, Thanh Hóa có 4 đơn vị, Hà Nội có 6 đơn vị. Số lượng cán bộ, diễn viên ở mỗi đơn vị nghệ thuật bình quân từ 30 đến 40 người. Các đoàn nghệ thuật địa phương có chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy đều có mô hình giống như các đoàn ở Trung ương.
Mô hình tổ chức các đoàn công lập là giống nhau, cơ chế quản lý theo kiểu hành chính, còn nhiều khó khăn về nguồn lực và khả năng phát triển.
4. Nguồn nhân lực
Đến hết năm 2012, sau 7 lần xét tặng, ngành Nghệ thuật biểu diễn có 266 nghệ sĩ nhân dân, 1934 nghệ sĩ ưu tú; qua 4 lần xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và 3 lần xét tặng giải thưởng nhà nước, đã có 102 người được nhà nước phong tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, 458 giải thưởng Nhà nước. Đó là những phần thưởng xứng đáng, ghi nhận những công lao và thành tích của giới nghệ sĩ của ngành trong thời gian qua.
- Đội ngũ sáng tạo nghệ thuật biểu diễn đã thành danh, được đào tạo bài bản từ Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa cũ phần lớn đã quá tuổi lao động, đội ngũ sáng tạo đang làm việc thiếu các điều kiện làm việc, sức sáng tạo còn hạn chế, thiếu về số lượng, chất lượng nghề chưa cao. Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã xuất hiện một số nhà sản xuất có năng lực, có nghề song họ lại thiếu cơ hội để thực hành nghề, nhiều người cuốn vào vòng xoáy của thị trường với mức thù lao cao, thiếu tâm huyết với các đề tài lớn. Đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước còn thiếu về số lượng và chưa đáp ứng yêu cầu của việc nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn, ở cả trung ương và địa phương.
- Nguồn nhân lực trong ngành đang rơi vào cuộc khủng hoảng về cơ cấu nguồn nhân lực (mất cân đối về loại hình, trình độ, độ tuổi); thiếu hụt nguồn nhân lực trẻ có thể đảm nhiệm các vị trí công tác trong quá trình phát triển ngành công nghiệp biểu diễn, thừa nguồn nhân lực đang hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng không còn khả năng làm nghề. Lực lượng nghệ sĩ với hơn 5.000 diễn viên lại chia dàn mỏng cho 11 loại hình nghệ thuật của 63 tỉnh thành; phân bố không đồng đều, có nơi thừa, có nơi thiếu, phần lớn cán bộ diễn viên ở trình độ trung cấp, sơ cấp hoặc chỉ qua truyền nghề và độ tuổi trung bình khá cao. Lực lượng nghệ sĩ chủ yếu tập trung tại các trung tâm chính trị - kinh tế lớn của cả nước, tại các đơn vị nghệ thuật trung ương, tuyến tỉnh thành phố có nguồn nhân lực có chất lượng thấp hơn.
- Đội ngũ tác giả, đạo diễn, nhạc sỹ, biên đạo, nghệ sĩ tài năng trẻ đang trong tình trạng khủng hoảng đáng báo động. Tác giả và đạo diễn của sân khấu truyền thống dân tộc hầu như đang cạn kiệt, thiếu đội ngũ kế cận. Hiện tại còn thiếu nhân lực của một số lĩnh vực như: Đạo diễn chương trình ca múa nhạc, tác giả kịch hát dân tộc, quản lý nghệ thuật, kỹ thuật viên âm thanh, ánh sáng, các nghề trong quản trị Nghệ thuật biểu diễn như marketing, gây quỹ - tài trợ, tổ chức sự kiện nghệ thuật... tình trạng này đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và tính hiện đại, chuyên nghiệp của hoạt động biểu diễn nghệ thuật.
- Đội ngũ quản lý các đơn vị nghệ thuật biểu diễn cả nước vừa thiếu và yếu, ít được đào tạo nâng cao trình độ nghệ thuật, trình độ quản lý; chưa thích ứng kịp với cơ chế thị trường; thiếu tâm huyết với sự nghiệp truyền thống dân tộc; lúng túng trong hướng đi và phát triển cho từng loại hình, thể loại nghệ thuật để có thể sáng tạo nhiều tác phẩm phù hợp với cuộc sống mới.
Công tác đào tạo: Hệ thống đào tạo nghệ thuật biểu diễn từ trung ương đến địa phương đã phát triển đáng kể từ chất lượng đến quy mô và hình thức đào tạo, nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ đội ngũ giảng viên còn hạn chế, tập trung vào hai trường đại học sân khấu và điện ảnh ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (chỉ có hơn 14% giáo viên có trình độ cao học trở lên). Chất lượng đầu vào không cao, điểm số thấp nên khó chọn được người có năng khiếu nghệ thuật để đào tạo thành nghệ sĩ giỏi. Quá trình đào tạo còn mang tính lý thuyết, thiếu điều kiện thực hành nghề. Hệ thống đào tạo về nghệ thuật biểu diễn từ cao đẳng và trung cấp hiện không tuyển đủ chỉ tiêu.
Mô hình đào tạo theo hướng xã hội hóa xuất hiện tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn với hình thức các câu lạc bộ, nhà văn hoá, nhóm nghệ thuật gia đình, một số được đào tạo ở nước ngoài... nhưng chưa đủ quy mô và hệ thống, có thể đào tạo được một số cá nhân xuất sắc song họ thiếu điều kiện làm việc và môi trường làm việc chuyên nghiệp; đa số chất lượng đào tạo chưa cao.
Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực của ngành còn có những hạn chế trên là do: Xu hướng xã hội chạy theo các ngành nghề mang tính thương mại, các ngành nghề nghệ thuật không tuyển được học sinh học giỏi, thậm chí không co nguồn để tuyển sinh cho một số môn nghệ thuật truyền thống như tuồng, chèo. Cơ chế, chính sách quản lý nhà nước đối với đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong nghệ thuật biểu diễn còn nhiều bất cập dẫn đến sự thiếu hiệu quả về quản lý nhà nước trong đào tạo và phát triển nguồn lực nghệ thuật biểu diễn. Không đào tạo kịp thời lực lượng kế cận, thiếu hụt tài năng trẻ, đặc biệt ở các bộ môn nghệ thuật truyền thống. Khó khăn về ngân sách chi đào tạo nghệ thuật, đặc biệt với các ngành âm nhạc, sân khấu, xiếc, múa. Chưa thúc đẩy được hợp tác quốc tế trong đào tạo, phần lớn là hợp tác đào tạo cho giáo viên với các lớp ngắn hạn, chưa mang tính chuyên sâu và tính hệ thống.
5. Cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật
Rạp biểu diễn: Về cơ bản các rạp hát đã được tổ chức, quản lý khai thác sử dụng theo đúng công năng sử dụng, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, việc khai thác sử dụng hiệu quả các cơ sở vật chất các rạp hát đang là thách thức đối với các đơn vị quản lý các công trình. Việc quản lý các rạp hát vẫn nặng theo hướng bao cấp, chưa có những cách tổ chức quản lý vận hành tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả khai thác công trình. Áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong đầu tư và hiện đại hóa trang thiết bị vẫn còn hạn chế, chưa theo kịp xu hướng phát triển của thế giới và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Các chính sách khuyến khích áp dụng đầu tư mua sắm thiết bị công nghệ cao trong rạp hát chưa đồng bộ như thuế nhập khẩu, các quy định tiêu chuẩn về nhà hát chưa có, hoặc có nhưng lạc hậu so với thế giới rất nhiều...Việc đào tạo về kỹ năng quản lý, cũng như nhân lực có kỹ thuật cao đáp ứng đòi hỏi yêu cầu về các thiết bị công nghệ nhà hát chưa thực sự được chú trọng (như về âm học, âm thanh, ánh sáng...).
Về trang thiết bị kỹ thuật: hiện tại có 39 rạp hát có hệ thống trang bị kỹ thuật và trang thiết bị đang sử dụng không đạt TCVN. Quy hoạch cũ đưa ra kế hoạch: “cải tạo, nâng cấp các rạp hát hiện có, đồng thời xây dựng mới một số nhà hát, trung tâm văn hoá... Năm 2010 phấn đấu 100% các đơn vị nghệ thuật có sàn tập đủ điều kiện luyện tập và dàn dựng tác phẩm” và đưa ra một danh mục các nhà hát sẽ được xây dựng đến năm 2010. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay mới chỉ có một số rạp hát được nâng cấp cải tạo. Chất lượng công trình của nhà hát yếu kém, trang thiết bị lạc hậu, thiếu đồng bộ không đáp ứng được nhu cầu thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của nhân dân. Mô hình quản lý rạp hát chủ yếu được tổ chức theo hai hình thức: (1) Giao cho một đơn vị tổ chức biểu diễn quản lý, hoạt động như một doanh nghiệp, tự chủ tài chính; (2) Giao cho một Nhà hát, một đoàn nghệ thuật như là đơn vị sự nghiệp quản lý nên không có cơ chế thu hút đầu tư trang thiết bị kỹ thuật.
Một số địa phương đã quan tâm đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật cho các đoàn nghệ thuật, nhưng nhìn chung việc đầu tư còn rất hạn chế; đa số các đơn vị Nghệ thuật thiếu thiết bị âm thanh, ánh sáng, phương tiện kỹ thuật phục vụ cho luyện tập và biểu diễn. Một số rạp biểu diễn tuy được sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị nhưng chất lượng không đáp ứng yêu cầu, hiệu quả sử dụng không cao do không có chỗ lắp đặt, thiết bị máy móc chắp vá, không đồng bộ, kỹ thuật viên sử dụng thiết bị âm thanh ánh sáng không được đào tạo đúng chuyên ngành. Không ít trường hợp đầu tư mua trang thiết bị đắt tiền nhưng không có chỗ để. Trang thiết bị thường vừa sử dụng tại nhà hát, vừa đem đi phục vụ biểu diễn lưu động nên nhanh chóng xuống cấp. Các đơn vị nghệ thuật ngoài công lập hiện tự đầu tư hoặc thuê toàn bộ thiết bị kỹ thuật và phương tiện vận chuyển nhưng nhà nước chưa có chủ trương đầu tư trực tiếp cho các đơn vị này.
Phương tiện vận chuyển: Phương tiện vận chuyển hầu hết đã cũ, lại hoạt động nhiều ở các vùng xa, vùng sâu cần thay mới. Số lượng các phương tiện được mua mới bị giảm trong những năm gần đây. Trong điều kiện ngân sách còn khó khăn, Nhà nước vẫn cấp kinh phí mua loại ô tô chuyên dụng cho các đoàn nghệ thuật nhưng mức ngân sách còn hạn chế nên các đoàn chưa mua được loại xe tốt để đi biểu diễn dài ngày phục vụ nhân dân ở vùng sâu vùng xa.
6. Tài chính
Ngân sách cấp hàng năm cho khối nhà nước:
Các đơn vị nghệ thuật biểu diễn là đơn vị sự nghiệp có thu, quản lý theo cơ chế gán thu bù chi. Ngân sách Nhà nước đảm bảo chi cần thiết cho các loại hình nghệ thuật biểu diễn, đảm bảo tiền lương theo chế độ hiện hành, chi phí xây dựng tiết mục theo yêu cầu chính trị, đồng thời khuyến khích biểu diễn có chất lượng để có doanh thu cao, bảo đảm hiệu quả xã hội và đời sống diễn viên. Cả nước có 3 khối lớn đơn vị nghệ thuật biểu diễn, được phân chia thành:
- Đơn vị nghệ thuật trung ương được cấp ngân sách hàng năm từ nguồn kinh phí sự nghiệp của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Đơn vị nghệ thuật lực lượng vũ trang được cấp ngân sách hàng năm từ nguồn kinh phí từ Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Đơn vị nghệ thuật các tỉnh, thành phố (địa phương) được cấp ngân sách hàng năm từ nguồn kinh phí sự nghiệp của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành phố.
Kinh phí cấp hàng năm cấp cho các đơn vị nghệ thuật trung ương chiếm từ khoảng 7,4%-10,5% so với tổng kinh phí của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Trong 5 năm trở lại đây (2008-2012), ngân sách cấp cho các đơn vị nghệ thuật biểu diễn có gia tăng, tuy nhiên tỷ lệ phần trăm giữa các đơn vị nghệ thuật biểu diễn với tổng kinh phí cấp lại giảm, do Bộ đang tiến hành thực hiện chủ trương chính sách xã hội hoá. Một số nhà hát theo lộ trình sẽ chuyển dần từ các đơn vị công lập hưởng kinh phí 100% từ ngân sách Nhà nước sang hưởng một phần kinh phí hoạt động từ ngân sách và tiến tới sẽ tự chủ 100% kinh phí hoạt động thường xuyên. Hiện chỉ có Nhà hát Nghệ thuật Đương đại Việt Nam là đơn vị tự chủ 100%, Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam là đơn vị tự chủ một phần kinh phí hoạt động thường xuyên, năm 2015 sẽ tự chủ 100% kinh phí. Theo chủ trương xã hội hoá của Đảng và Nhà nước phải tăng hơn nữa kinh phí cho nhóm nghệ thuật truyền thống cần được bảo tồn và phát huy, đồng thời giảm dần kinh phí cho nhóm nghệ thuật hiện đại, lấy nguồn kinh phí từ các hoạt động xã hội hoá để bổ sung chi cho hoạt động thường xuyên của đơn vị.
Các đơn vị nghệ thuật các tỉnh, thành phố, lực lượng vũ trang được cấp kinh phí theo ngân sách tỉnh, thành và ngân sách an ninh quốc phòng; chủ yếu cho duy trì bộ máy, trả lương, phục vụ các nhiệm vụ chính trị, chi phí dựng các tác phẩm, chương trình nghệ thuật. Bình quân ngân sách hàng năm cấp cho mỗi đơn vị khoảng 2 tỷ đồng. Chi cho lương và duy trì bộ máy chiếm 2/3 số tiền được cấp, chi cho hoạt động sáng tạo và quảng bá tác phẩm nghệ thuật chiếm 1/3. Ngoài ngân sách được cấp, hàng năm, các đoàn phải đi lưu diễn. Số tiền thu từ hoạt động biểu diễn không nhiều song hầu hết được các địa phương đã dành cơ chế “để lại” cho đoàn để tái đầu từ và nâng cao một phần đời sống cho nghệ sỹ, công nhân viên. Các đơn vị nghệ thuật lực lượng vũ trang cũng theo cơ chế quản lý tài chính cấp phát từ cấp trên, tuy không đồi dào nhưng có mức chi khá hơn các đoàn nghệ thuật thuộc các tỉnh có kinh tế trung bình.
Về cơ bản, các đơn vị ngành nghệ thuật biểu diễn của cả 3 khối đều hoạt động phụ thuộc vào nguồn kinh phí của nhà nước cấp hàng năm. Ngoài những đơn vị nghệ thuật truyền thống cần được bảo tồn và phát huy và những đơn vị nghệ thuật thuộc lực lượng vũ trang hoạt động dựa trên nhiệm vụ chính trị thì các đơn vị còn lại chưa phát huy được thế mạnh, chưa tự thể hiện, tạo dựng thương hiệu, uy tín đối với công chúng trong nước và nước ngoài, chưa huy động được nguồn vốn từ xã hội hoá và từ hợp tác quốc tế, đây thực sự là một gánh nặng ngân sách cho nhà nước.
Trong 5 năm trở lại đây (2008-2012), ngân sách cấp cho các đơn vị nghệ thuật biểu diễn cấp tỉnh, thành có gia tăng, năm sau so với năm trước tăng khoảng trung bình 14%. Trong các đơn vị nghệ thuật biểu diễn địa phương, nhóm đơn vị nghệ thuật truyền thống chiếm khoảng 38%, còn lại là các đơn vị nghệ thuật biểu diễn tổng hợp (bao gồm cả hiện đại và truyền thống), chính vì vậy chưa thể phân loại rõ kinh phí cấp cho nhóm nghệ thuật truyền thống thống cần được bảo tồn, phát huy và nhóm biểu diễn nghệ thuật hiện đại có khả năng xã hội hoá cao.
Các nguồn huy động từ xã hội: Trong những năm qua các đơn vị nghệ thuật công lập đã tìm nhiều phương thức để huy động các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư, hỗ trợ hoạt động nghệ thuật biểu diễn nhưng hiệu quả chưa cao. Phương thức huy động các nguồn lực xã hội của các đơn vị chủ yếu là xin tài trợ của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước hỗ trợ cho công tác sáng tạo và quảng bá tác phẩm.
7. Các cuộc thi, liên hoan và chất lượng các tác phẩm nghệ thuật
Hội diễn sân khấu, ca-múa - nhạc toàn quốc trong nhiều năm được tổ chức 5 năm một lần, thường lấy các năm có những ngày lễ lớn của dân tộc. Hội diễn, hội thi là dịp để các đơn vị nghệ thuật và các nghệ sĩ có dịp gặp gỡ, giao lưu, học hỏi lẫn nhau nhằm nâng cao chất lượng nghệ thuật. Các hội diễn, hội thi đều do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là đơn vị tổ chức, có sự phối hợp với các cơ quan chuyên môn là các hội văn học nghệ thuật trung ương hay địa phương.
Ngoài hội diễn cho nhiều loại hình nghệ thuật biểu diễn, còn có các cuộc thi tài năng trẻ sân khấu; thi các trích đoạn hay sân khấu; thi diễn tấu nhạc cụ dân tộc; thi hát thính phòng; thi tài năng biểu diễn múa... thường được tổ chức vào các năm lẻ nhằm phát hiện bồi dưỡng những nghệ sĩ trẻ tài năng.
Tính chất nhà nước thể hiện rất rõ trong các hội thi này, chủ yếu là sự tham gia của các đơn vị nghệ thuật nhà nước, từ trung ương đến địa phương. Các đơn vị xã hội hóa rất ít tham gia do khác biệt về mục tiêu công diễn và thiếu kinh phí tổ chức.
Nhìn chung chất lượng tư tưởng, nội dung nghệ thuật các tác phẩm trong Hội diễn, Cuộc thi, Liên hoan nghệ thuật từng bước đã được nâng cao do cơ quan quản lý nhà nước đã định hướng tiêu chí nghệ thuật và các đơn vị có sự đầu tư về mọi mặt để nâng cao chất lượng tác phẩm. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những hạn chế như việc chấm điểm, trao giải còn dễ dãi, thiếu tính khoa học. Trong sáng tác còn thiếu những kịch bản hay nên nhiều tiết mục tham gia bị trùng lặp, gò bó về đề tài. Có những tác giả, đạo diễn, nhạc sĩ, hoạ sỹ, biên đạo múa cùng một thời điểm nhận dàn dựng cho nhiều đơn vị, khiến hội diễn không đạt được chất lượng nghệ thuật cao. Chương trình, tiết mục được đầu tư nhiều nhưng không phát huy được hiệu quả nghệ thuật khi đi phục vụ công chúng, khán giả, bị công luận và người xem đặt ra một vấn đề là cần cải tiến cách thức tổ chức các liên hoan và hội thi, đặc biệt là nêu cao mục tiêu coi sức thu hút của khán giả là một tiêu chí đánh giá chất lượng tác phẩm nghệ thuật.
8. Thi người đẹp, người mẫu, trình diễn thời trang
Thi người đẹp, người mẫu: Trong những năm vừa qua, để quản lý tốt hoạt động tổ chức thi người đẹp, người mẫu, Chính phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho tổ chức, cá nhân tham gia tổ chức các cuộc thi người đẹp và người mẫu, phù hợp với chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa và là phương tiện, công cụ cho cơ quan quản lý nhà nước thực hiện vai trò, chức năng và nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với hoạt động này.
Năm 1988, Việt Nam có cuộc thi hoa hậu đầu tiên. Ngoài cuộc thi "Hoa hậu Việt Nam”, hiện còn có các cuộc thi như "Hoa hậu các dân tộc Việt Nam năm 2007, 2011, 2013", “Hoa hậu Thế giới người Việt năm 2007, 2010”, “Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam năm 2008”, “Hoa hậu quý bà thành đạt Việt Nam năm 2009”. Với các cuộc&
Bình luận