PHẦN 2 DỰ THẢO QUY HOẠCH TỔNG THỂ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN ĐẾN NĂM 2020, ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
Thi người đẹp, người mẫu: Trong những năm vừa qua, để quản lý tốt hoạt động tổ chức thi người đẹp, người mẫu, Chính phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho tổ chức, cá nhân tham gia tổ chức các cuộc thi người đẹp và người mẫu, phù hợp với chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa và là phương tiện, công cụ cho cơ quan quản lý nhà nước thực hiện vai trò, chức năng và nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với hoạt động này.
Năm 1988, Việt Nam có cuộc thi hoa hậu đầu tiên. Ngoài cuộc thi "Hoa hậu Việt Nam”, hiện còn có các cuộc thi như "Hoa hậu các dân tộc Việt Nam năm 2007, 2011, 2013", “Hoa hậu Thế giới người Việt năm 2007, 2010”, “Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam năm 2008”, “Hoa hậu quý bà thành đạt Việt Nam năm 2009”. Với các cuộc thi hoa khôi và người đẹp cấp tỉnh, mỗi năm trên toàn quốc diễn ra từ 10 - 15 cuộc thi. Các cuộc thi này được tổ chức nhằm quảng bá cho các hoạt động như du lịch, thể thao, sản phẩm trang sức hoặc quảng bá cho các địa phương có dịch vụ du lịch phát triển.
Một số doanh nghiệp cũng đã rất cố gắng, nỗ lực mua bản quyền và thực hiện tổ chức các cuộc thi Hoa hậu quốc tế tại Việt Nam. Từ năm 2008 cho đến nay, đã có một số cuộc thi Hoa hậu quốc tế được tổ chức tại Việt Nam như cuộc thi “Hoa hậu hoàn vũ thế giới năm 2008”, “Hoa hậu quý bà thế giới 2009”, “Hoa hậu trái đất năm 2007 và 2010”.
Các cuộc thi người mẫu, thời trang: Ngành công nghiệp may phát triển đã thúc đẩy hoạt động trình diễn thời trang như một hiện tượng nghệ thuật biểu diễn, đáp ứng yêu cầu giới thiệu, quảng bá các sản phẩm thời trang đến với khách hàng trong nước và quốc tế một cách chuyên nghiệp, thông qua những người mẫu chuyên nghiệp, có kỹ năng trình diễn, có khả năng truyền tải được ưu điểm của sản phẩm đến với khách hàng. Các cuộc thi như “Siêu mẫu Việt Nam”, “Người mẫu Nam - Việt Nam”, “Ngôi sao người mẫu”,“Vietnam’s Next Top Model”... đã được tổ chức và thành các sự kiện trình diễn có thương hiệu.
Quá trình tổ chức các sự kiện này đã tạo nên những sự kiện văn hóa thẩm mỹ tiêu biểu; là sân chơi để nam, nữ thanh niên trên toàn quốc giao lưu văn hóa xã hội, giới thiệu và tôn vinh vẻ đẹp của thiếu nữ Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; góp phần xã hội hóa hoạt động nghệ thuật biểu diễn, với 100% kinh phí được huy động từ các nguồn lực xã hội; tạo cơ hội việc làm, cơ hội thể hiện tài năng nghệ thuật cho nhiều bạn trẻ; góp phần thúc đẩy phát triển du lịch, phát triển kinh tế, xã hội của các địa phương đăng cai tổ chức. Ở phạm vi quốc tế, hoạt động này góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Tuy nhiên, các cuộc thi người đẹp và người mẫu vẫn còn những hạn chế như: Tổ chức thiếu chuyên nghiệp, tạo dư luận không tốt; lệ thuộc rất lớn vào yêu cầu, đòi hỏi của nhà tài trợ như quyền lợi quảng cáo, quyền chi phối vào kết quả của cuộc thi, dẫn đến công tác tổ chức không minh bạch, khách quan, môt số cuộc thi bị dư luận xã hội phản ứng gay gắt; một số cuộc thi không đạt yêu cầu về quy mô, chất lượng chương trình; mua bán giải thưởng; cạnh tranh không lành mạnh.
9. Hoạt động lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình có nội dung ca múa nhạc, sân khấu
Nhiều văn bản pháp quy quản lý về lĩnh vực này đã được ban hành, gần đây nhất là các văn bản như Nghị định số 103/2009/NĐ-CP kèm theo Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng; Nghị định số 79/2012/NĐ-CP quy định về biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu; Thông tư số 03/2013/TT-BVHTTDL của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 79/2012/NĐ-CP. Các văn bản này được ban hành khá đầy đủ và kịp thời, đáp ứng các yêu cầu quản lý nhà nước.
Do tính chất các bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu là sản phẩm được định dạng cố định vì vậy việc quản lý các hoạt động này không quá phức tạp. Các tổ chức, cá nhân cơ bản tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật trong việc sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu hành, kinh doanh băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình ca nhạc sân khấu.
Về hoạt động sản xuất, lưu hành, kinh doanh băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình ca múa nhạc sân khấu: Từ năm 2010 trở về trước, số lượng các chương trình băng, đĩa ca múa nhạc, sân khấu được cấp phép mới mỗi năm từ 700 - 1000 chương trình và Cục Nghệ thuật biểu diễn cấp khoảng 15 - 20 triệu nhãn kiểm soát/năm. Từ năm 2010 trở lại đây, số lượng chương trình băng, đĩa ca múa nhạc, sân khấu được đầu tư, sản xuất mới ngày càng ít. Trung bình mỗi năm có khoảng 300 chương trình được sản xuất mới và Cục Nghệ thuật biểu diễn cấp khoảng 4 -2 triệu nhãn kiểm soát/năm.
Trên toàn quốc hiện có khoảng trên 200 doanh nghiệp và chủ yếu hoạt động tại Tp. Hồ Chí Minh, tại Hà Nội có khoảng 04 doanh nghiệp hoạt động sản xuất lưu hành, kinh doanh các bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu được thực hiện bằng nguồn vốn xã hội hóa 100%. Về công nghệ, trong đó có công nghệ thu âm, ghi hình rất phát triển do vậy có nhiều sản phẩm nghe nhìn được sản xuất, lưu hành, kinh doanh, những công nghệ cũ như Đài Cattset, Đầu đọc băng Video, Đầu đọc đĩa CD- VCD dần dần được thay thế bằng Đầu đọc DVD , MIDI, HD... đã góp phần cho công chúng, khán giả được thưởng thức các sản phẩm ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu có chất lượng cao về âm thanh, hình ảnh. Một số doanh nghiệp tư nhân nhập khẩu và phân phối những sản phẩm ghi âm, ghi hình có nội dung ca múa nhạc, sân khấu của nước ngoài để phục vụ thị hiếu của một bộ phận khán giả trong nước. Các hoạt động xuất khẩu đã được đẩy mạnh, góp phần quảng bá nghệ thuật Việt Nam đến với bạn bè quốc tế.
Bên cạnh những thuật lợi trong việc phát triển thị trường băng, đĩa ca múa nhạc, sân khấu cũng đồng thời xuất hiện nhiều khó khăn, thách thức và hiện nay thị trường sản xuất, lưu hành, kinh doanh băng, đĩa ca múa nhạc, sân khấu đang gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Công nghệ ghi âm, ghi hình hiện nay đã gặp những thách thức như sao chép lậu và bán ra thị trường với giá rất rẻ, gây thất thu cho doanh nghiệp sản xuất, thất thu thuế cho nhà nước và vi phạm nghiêm trọng Luật Sở hữu trí tuệ; việc phát triển quá nhanh các thế hệ kỹ thuật đòi hỏi nguồn đầu tư lớn nhưng do kinh phí không đủ đã khiến hoạt động này ngày càng thu hẹp về quy mô cũng như chất lượng các chương trình; cạnh tranh rất khốc liệt; ngày càng đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao song trình độ và đội ngũ còn thiếu và yếu.
10. Tổ chức sự kiện nghệ thuật biểu diễn
Sau Đổi mới, cùng với sự phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế, đã xuất hiện các hiện tượng nghệ thuật mới, trong đó các festival và sự kiện nghệ thuật. Cho đến nay, các festival nghệ thuật đã được tổ chức ở Việt Nam thành công là Festival Huế. Bên cạnh đó, còn có một số festival nghệ thuật biểu diễn như “Âm nhạc truyền thống các nước ASEAN”, CAMA Festival do Câu lạc bộ Mỹ - CAMA Vietnam tổ chức, với sự giúp đỡ của Viện Goethe, Made In Berlin (chương trình đưa các tài năng âm nhạc Đức đến châu Á) và Đại sứ quán Australia tại Việt Nam; Festival nghệ thuật đường phố do Mạng xã hội Zing me; Festival các trường sân khấu quốc tế lần thứ I - Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương nhằm tạo điều kiện mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác, học hỏi kinh nghiệm, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động biểu diễn cũng như đào tạo. Bên cạnh Festival Huế còn có một loạt các lễ hội và fsestival được nhiều địa phương tổ chức nhằm quảng bá các giá trị văn hoá truyền thống, quảng bá sản phẩm gắn với hoạt động lễ hội và nghệ thuật như: Festival Quan họ, Hát Xoan, Đờn ca tài tử, Festival Biển, Festival café, Festival…Các hoạt động này đã góp phần tích cực trong công tác xúc tiến du lịch, quảng bá thương mại, thương hiệu các sản phẩm hàng hoá.
Hạn chế lớn nhất trong các chương trình Lễ hội, Festival là đơn vị tổ chức chưa tìm được phương pháp sáng tạo mới về nội dung, nghệ thuật. Hầu hết các Lễ hội và Festival đều giống nhau về nội dung, nghệ thuật và hình thức thể hiện. Hiện nay, chúng ta thiếu một định hướng phát triển chung cho loại hình này; thiếu các đánh giá, tổng kết tác động của sự kiện nghệ thuật vào đời sống xã hội và đời sống nghệ thuật; các sự kiện do nhà nước tổ chức thu hút ít khán thính giả tham dự; năng lực và các điều kiện cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, điều kiện pháp lý cũng còn có những hạn chế.
11. Thị hiếu thẩm mỹ và xu hướng hưởng thụ văn hóa
Mức độ thụ hưởng văn hóa nghệ thuật của người dân thông qua hình thức nghệ thuật biểu diễn còn rất nhiều hạn chế. Sự hạn chế này được nhận thấy cả ở hai hình thức hoạt động diễn ra ngoài phạm vi gia đình, tại các điểm diễn ra các sự kiện cũng như ngay trong phạm vi gia đình, thông qua các phương tiện tiện nghi trong gia đình. Sự hạn chế thể hiện cả ở các loại hình nghệ thuật sân khấu lẫn nghệ thuật trình diễn âm nhạc.
Gần đây, đã xuất hiện thị trường tiêu thụ các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn tại các thành phố lớn, với sức tiêu thụ khá mạnh ở một số loại hình nghệ thuật như kịch nói, ca múa nhạc. Các sản phẩm phát sinh từ các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn như băng đĩa, quà lưu niệm, cũng được tiêu thụ mạnh. Tuy nhiên trên thị trường vẫn xuất hiện những mất cân đối như:
Có một sự chênh lệch tỷ lệ xem các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn truyền thống với nghệ thuật biểu diễn mới, với tỷ lệ ít gấp 4,99 lần, nghĩa là cứ có gần 5 lượt xem nghệ thuật biểu diễn mới có 1 lượt xem nghệ thuật biểu diễn truyền thống.
Thị trường tiêu thụ chủ yếu tập trung tại thành phố HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, khu vực nông thôn chưa hình thành thị trường thực sự. Người xem chủ yếu là lớp trẻ, học sinh sinh viên, tầng lớp trung niên có thu nhập trung bình trở lên, lứa tuổi trên 70 hầu như không đến rạp. Nam giới đi xem nhiều hơn nữ (61% so với 39%), học vấn của người đi xem phim chủ yếu từ phổ thông trung học trở lên. Người dân Tp. Hồ Chí Minh có mức độ hưởng thụ ngoài không gian gia đình cao hơn so với người dân Hà Nội, họ cũng có tỷ lệ đi xem/nghe một mình hoặc với bạn bè cao hơn, trong khi đó người Hà Nội có xu hướng đi cùng người thân trong gia đình. Giới văn phòng, viên chức và học sinh sinh viên có mức độ thụ hưởng cao hơn các nhóm nghề nghiệp khác.
Các hình thức hưởng thụ tại gia chủ yếu vẫn thông qua phương tiện truyền hình (bao gồm cả truyền hình cáp và đầu thu kỹ thuật số, bên cạnh đó phương tiện máy tính cùng với Internet cũng là một phương tiện quen thuộc được ưa chuộng, các phương tiện di động và các phương tiện truyền thống mới khác chưa được người dân sử dụng ngày càng nhiều hơn.
Khán thính giả đang có những thiếu hụt về định hướng thẩm mỹ, về lựa chọn các hình thức giải trí do chúng ta thiếu một chiến lược giáo dục nghệ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển mới.
12. Xã hội hóa các hoạt động biểu diễn nghệ thuật
Thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với sự nghiệp công lập; Nghị định số 53/2006/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập và Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường, trong những năm vừa qua, công tác xã hội hóa hoạt động nghệ thuật biểu diễn đã đạt được những thành công sau:
Về chuyển đổi mô hình quản lý: chuyển đổi Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam và Nhà hát Ca Múa nhạc Việt Nam sang hình thức tự chủ, tiếp tục rà soát để tiến tới chuyển đổi một số đơn vị nghệ thuật công lập ở trung ương sang hình thức này. Tại thành phố Hồ Chí Minh, đã thực hiện chuyển đổi Trung tâm Ca Nhạc nhẹ từ đơn vị tự chủ được nhà nước cấp một phần kinh phí hoạt động thường xuyên thành đơn vị tự chủ hoàn toàn về kinh phí, sát nhập Đoàn Xiếc và Đoàn Nghệ thuật Múa Rối để thành lập Nhà hát Nghệ thuật Phương Nam. Các địa phương khác trong cả nước vẫn duy trì cơ chế nhà nước bao cấp. Nhìn chung chuyển đổi mô hình hoạt động của các đơn vị nghệ thuật công lập còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Công tác cổ phần hóa và chuyển đổi mô hình hoạt động của các đơn vị nghệ thuật công lập sang hình thức tự chủ và xã hội hóa rất chậm và hầu như chưa được thực hiện. Các địa phương không nhận thức hết được tính tất yếu và lợi ích lâu dài của công tác quy hoạch cho nên trong công tác chỉ đạo còn thiếu kiên quyết, thiếu tập trung; tư duy bao cấp còn khá phổ biến trong lãnh đạo các cấp, các ngành.
Về phát triển các đơn vị ngoài công lập: Thực hiện các chính sách của Nhà nước trong việc phát triển các đơn vị nghệ thuật xã hội hóa (bán công, dân lập, tư nhân) được thể chế trong Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, Nghị định số 53/2006/NĐ-CP, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài Chính như Thông tư số 91/2006/TT-BTC, Thông tư 135/2008/TT – BTC, việc phát triển các đơn vị nghệ thuật theo mô hình xã hội hóa cho đến nay còn nhiều bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc phát triển các đơn vị nghệ thuật theo hình thức bán công theo quy định tại Nghị định 73/1999/NĐ-CP và Nghị định 69/2008/NĐ-CP hiện tại cũng gặp nhiều khó khăn và hầu như chưa được thực hiện do chưa có văn bản hướng dẫn về quy trình và thủ tục để thành lập đơn vị nghệ thuật ngoài công lập, vì vậy trên toàn quốc không có một đơn vị nghệ thuật nào được thành lập và hoạt động theo mô hình này.
Hiện nay trên toàn quốc có khoảng gần 10 doanh nghiệp hoạt động biểu diễn nghệ thuật và hàng nghìn doanh nghiệp/công ty hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật. Trong đó có khoảng trên 500 doanh nghiệp/công ty thực hiện các thủ tục xin cấp Giấy phép tổ chức biểu diễn nghệ thuật tại các cơ quan quản lý địa phương và có khoảng trên 300 chủ địa điểm thường xuyên hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật. Các đơn vị nghệ thuật tư nhân thành lập và hoạt động dưới mô hình doanh nghiệp với sự năng động, nhạy bén đã biết chú trọng đến công tác tiếp thị, xây dựng chương trình, vở diễn với tiêu chí hướng đến công chúng trên cơ sở nắm bắt thị hiếu và đáp ứng kịp thời nhu cầu của khán giả; đầu tư về kỹ sảo, âm thanh, ánh sáng có chiều sâu do đó các đơn vị này đang từng bước hoạt động ổn định và có chiều hướng phát triển. Một số doanh nghiệp biểu diễn nghệ thuật, đi đầu là tại thành phố Hồ Chí Minh, đã dần dần định hình phong cách và có lượng khán giả ổn định, các đơn vị còn lại đang từng bước tìm hướng đi riêng để tồn tại, phát triển nhằm mục đích phục vụ công chúng và thỏa mãn nhu cầu biểu diễn, cống hiến cho nghệ thuật, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, việc phát triển các doanh nghiệp biểu diễn nghệ thuật và tổ chức biểu diễn nghệ thuật còn gặp một số khó khăn: Hầu hết các doanh nghiệp biểu diễn nghệ thuật không có trụ sở gắn với địa điểm luyện tập, biểu diễn phục vụ nhân dân, tất cả các đơn vị đều phải đi thuê địa điểm biểu diễn để duy trì hoạt động. Nguồn kinh phí để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất rất lớn, các đơn vị nghệ thuật tư nhân không có khả năng thực hiện, trong khi đó nhà nước chưa có cơ chế hỗ trợ về cơ sở vật chất, tài chính cho đối tượng này. Hoạt động của các doanh nghiệp biểu diễn nghệ thuật hiện nay mang tính thời vụ, thiếu ổn định; các doanh nghiệp biểu diễn nghệ thuật đều do các nghệ sĩ đứng lên thành lập và trực tiếp điều hành. Phần lớn các nghệ sĩ vững về chuyên môn nhưng lại yếu về quản trị doanh nghiệp dẫn đến lúng túng trong khâu quản lý, điều hành và thực hiện quy định pháp luật trong quá trình hoạt động biểu diễn nghệ thuật; tập trung ở loại hình nghệ thuật hiện đại như ca múa nhạc trẻ, tấu hài, kịch nói... và ít tham gia hoạt động ở lĩnh vực nghệ thuật truyền thống; chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận khán giả.
Việc liên doanh, liên kết với đối tác nước ngoài để thành lập doanh nghiệp hoạt động biểu diễn nghệ thuật hiện nay trên toàn quốc hầu như chưa thực hiện được. Theo cam kết của Việt Nam với tổ chức thương mại thế giới (WTO), các tổ chức nước ngoài chỉ được đầu tư vào 3 lĩnh vực: nhà hát, nhạc sống và xiếc, với số vốn góp không vượt quá 51%, vì vậy việc liên doanh, liên kết thành lập doanh nghiệp hoạt động biểu diễn nghệ thuật sẽ rất khó để thực hiện.
Về thành lập các ban, nhóm, câu lạc bộ hoạt động biểu diễn nghệ thuật: Các tổ chức, cá nhân chưa thực sự quan tâm đầu tư vào hoạt động nghệ thuật biểu diễn vì loại hình này có tính đặc thù cao, tiềm ẩn nhiều rủi do, phức tạp trong quản lý và đòi hỏi sự đầu tư lớn về cơ sở vật chất và trí tuệ nhưng lại chậm thu hồi vốn so với các ngành nghề, lĩnh vực khác. Phần lớn các đơn vị nghệ thuật, các đoàn, ban, nhóm nghệ thuật tư nhân hiện nay được thành lập trên cơ sở nhu cầu hoạt động biểu diễn và nhu cầu kinh doanh của các tổ chức, cá nhân chứ không phải bắt nguồn từ các chính sách khuyến khích của nhà nước, vì mục đích doanh thu và chỉ tập trung ở các loại hình nghệ thuật thu hút được sự quan tâm của công chúng, khán giả như ca múa nhạc trẻ - hiện đại, kịch nói... Nhiều tác phẩm có nội dung không có tính thẩm mỹ, giáo dục; không phù hợp với phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa của dân tộc. Những tác phẩm này đã gián tiếp tác động đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận khán giả, nhất là khán giả trẻ trong giai đoạn hiện nay.
13. Hợp tác quốc tế
Các hoạt động hợp tác quốc tế của ngành Nghệ thuật biểu diễn do Bộ và Cục Nghệ thuật biểu diễn quản lý. Nghị định số 79/2012/NĐ-CP đã giúp cho Cục Nghệ thuật biểu diễn, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng phối hợp với các cấp, các ngành điều chỉnh các hoạt động nghệ thuật biểu diễn có yếu tố nước ngoài.
Trao đổi các chương trình biểu diễn nghệ thuật thông qua các Nghị định của Chính phủ, mỗi năm Bộ Văn hóa Thông tin trước đây, nay là Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch phân bổ việc giao lưu, hợp tác quốc tế cho các đơn vị Nghệ thuật trung ương và Địa phương thực hiện. Đây còn gọi là phương diện hợp tác đối ngoại chính thống do Bộ giao nhiệm vụ cho các đơn vị Nghệ thuật đưa các chương trình nghệ thuật đi biểu diễn tại các nước có quan hệ ngoại giao với Chính phủ các quốc gia nhân các sự kiện như: “Giao lưu...”, “Hữu nghị hợp tác...”, “Phái đoàn Chính phủ đi thăm…” , hay những ngày Văn hóa Việt Nam tại nước ngoài và ngược lại...
Những đơn vị thuộc loại hình nghệ thuật hiện đại như Nhà hát Kịch Việt Nam, Dàn nhạc giao hưởng Việt Nam, Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam, Nhà hát Ca múa nhạc Việt Nam, Nhà hát Nghệ thuật đương đại Việt Nam, Nhà hát Tuổi trẻ, Liên đoàn Xiếc Việt Nam… đều có các hoạt động hợp tác quốc tế tương đối mạnh, thông qua Trung tâm Ngôn ngữ Văn minh Pháp (L’Espace), Hội đồng Nghệ thuật Anh (British Council), Viện Goethe, Quỹ Toyota, hãng Hennessy. Những đơn vị thuộc loại hình nghệ thuật truyền thống có rất ít hoạt động hợp tác quốc tế, duy nhất chỉ có Nhà hát múa Rối Việt Nam là đang có thế mạnh riêng, nổi lên từ chính cơ chế trị trường. Về kinh phí, các đơn vị có nghệ thuật loại hình nghệ thuật hiện đại khi thực hiện các chương trình nghệ thuật lớn, dàn dựng những vở diễn gần như không lấy tiền ngân sách. Nguồn kinh phí chủ yếu họ dựa vào đối tác bên ngoài là các tổ chức của nước ngoài hợp tác với các đơn vị tài trợ và sự vận động tài trợ của một số cá nhân, của một số tổ chức nước ngoài, tổ chức phi chính phủ của các nước Thụy Điển, Canada, Úc, Đức, Mỹ…
Cách tiếp cận mới trong tổ chức công việc, tư duy mới đã kích thích đội ngũ nghệ sỹ tham gia tích cực hơn trong các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, đồng thời tạo công ăn việc làm nhiều hơn cho cả tập thể cán bộ, nghệ sỹ của đơn vị mình. Sự hợp tác quốc tế này đã mang lại nhiều lợi ích cho các nghệ sỹ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp cận tác phong làm việc mới, văn minh và hiện đại. Các hoạt động hợp tác quốc tế là dịp được giao lưu, học hỏi kinh nghiệm biểu diễn nghệ thuật; trình độ biểu diễn của các nghệ sỹ ngày được cải thiện, nâng cao và hoàn thiện hơn.
II. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ DỰ BÁO XU THẾ PHÁT TRIỂN
Các xu thế phát triển trong nước và quốc tế đầu thế kỷ 21 đã và đang tác động đến sự phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam.
1. Các yếu tố tác động
- Mở cửa và hội nhập kinh tế là một xu thế khách quan vừa là quá trình hợp tác để phát triển. Nghệ thuật biểu diễn được mở rộng, tạo điều kiện cho giao lưu, hội nhập văn hóa - nghệ thuật, đồng thời cũng đang diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Thông qua các cơ chế hợp tác WTO, TPP, ASEAN và nhiều cơ chế hợp tác khác, các cạnh tranh về thị trường trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn sẽ diễn ra mạnh mẽ ngay trên chính thị trường nội địa, nếu chúng ta không có những giải pháp tốt để nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển sẽ đưa thế giới từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và kinh tế tri thức. Xu hướng số hóa, tích hợp công nghệ ngay trong chính các tác phẩm nghệ thuật, làm nhòe ranh giới các loại hình nghệ thuật bởi công nghệ đòi hỏi ngành nghệ thuật biểu diễn phải thay đổi với sự thay đổi về tư duy sáng tạo, đầu tư áp dụng công nghệ, đầu tư thay đổi quy trình sản xuất tác phẩm, sản phẩm.
- Nhân tố con người dần trở thành trung tâm của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Nhiều quốc gia đang hướng tới nâng cao các chỉ số nguồn nhân lực và mức hưởng thụ văn hóa. Đầu tư cho văn hóa - xã hội từ chỗ được coi là đầu tư cho phúc lợi xã hội chuyển thành đầu tư cho con người, cho sự phát triển, đi đôi với đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đáp ứng được xu thế chung của đất nước và thế giới. Trong xu thế này, ngành nghệ thuật biểu diễn có cơ hội phát triển.
- Sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta là nền tảng vững chắc tạo môi trường thuận lợi cho phát triển hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Xã hội đòi hỏi nghệ thuật biểu diễn phải là lực lượng xung kích, không chỉ phục vụ nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa thông qua các sản phẩm hàng hóa có giá trị về mặt thương mại.
- Trình độ dân trí ngày càng phát triển, nhu cầu của khán giả xem biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp trực tiếp trên sân khấu và nghe, nhìn trên sóng phát thanh, truyền hình hoặc qua băng đĩa hình, băng đĩa tiếng sân khấu (ti vi, radio, video...) càng đòi hỏi cao hơn. Trong những năm tới mức hưởng thụ nghệ thuật biểu diễn chuyên nghiệp của nhân dân được cải thiện, giảm dần khoảng cách không đồng đều giữa khu vực đô thị và nông thôn, miền núi, vùng xa xôi hẻo lánh.
- Sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường vừa thúc đẩy các nguồn lực cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật nhưng đồng thời xuất hiện những biểu hiện tiêu cực vì mục đích lợi nhuận mà hoạt động vi phạm pháp luật, coi nhẹ những giá trị văn hóa truyền thống đích thực.
- Cuộc cạnh tranh mạnh mẽ trong lĩnh vực hoạt động biểu diễn, sản phẩm băng đĩa ca nhạc, sân khấu, truyền thanh, truyền hình, qua mạng Internet, sách báo ... đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn ở các cấp cũng như năng lực sáng tạo, sản xuất và phân phối các tác phẩm và sản phẩm nghệ thuật biểu diễn của các đơn vị nghệ thuật và cá nhân các nghệ sĩ.
- Xu hướng xã hội hóa trong nghệ thuật ngày càng diễn ra mạnh mẽ hơn, đòi hỏi các đơn vị của khu vực nhà nước phải đẩy mạnh năng lực tổ chức sản xuất các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn trong bối cảnh chi tiêu công giảm. Đây là một thách thức lớn đối với phần lớn các đoàn nghệ thuật.
2. Dự báo xu hướng phát triển nghệ thuật biểu diễn
- Nghệ thuật biểu diễn cùng với các loại hình nghệ thuật khác tiếp tục là hình thái xã hội tích cực tham gia vào quá trình phát triển của xã hội, làm tốt chức năng cổ vũ cho những nhân tố tích cực, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực của xã hội, phản ánh những giá trị chân, thiện, mỹ của thời đại.
- Nghệ thuật chịu sự tác động lớn của của sự biến đổi xã hội, dưới tác động của các yếu tố khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và truyền thông. Chính bối cảnh này đòi hỏi sự sáng tạo nghệ thuật một mặt vẫn tiếp tục dòng chảy chân, thiện, mỹ, mặt khác, phải thay đổi tư duy sáng tạo, thay đổi phương pháp sáng tác để theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của xã hội.
- Có một sự giao thoa, hòa trộn các loại hình nghệ thuật biểu diễn, thay vì một khung phân loại cứng nhắc theo truyền thống. Chính đặc điểm này làm thay đổi đặc điểm của đối tượng quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước về nghệ thuật biểu diễn.
- Trở thành các doanh nghiệp sản xuất tinh thần sẽ thay đổi phương thức quản trị các tổ chức nghệ thuật, đòi hỏi phải áp dụng các bài toán quản trị doanh nghiệp trong các tổ chức nghệ thuật để nâng cao khả năng tiếp cận công chúng, giảm chi phí, đa dạng hóa sản phẩm. Các công cụ quản trị hiện đại sẽ được áp dụng nhanh chóng trong các tổ chức nghệ thuật.
- Công chúng nghệ thuật biểu diễn sẽ có một thị hiếu đa dạng và khá khác biệt dựa trên sự phân hóa các nhóm và tầng lớp xã hội. Chính đặc điểm này đòi hỏi các tác phẩm, các kênh phân phối sản phẩm nghệ thuật biểu diễn phải nghiên cứu thị hiếu và khả năng trị trả của nhóm, nghĩa là phải có tư duy và phương pháp tiếp cận thị trường tiềm năng và thị trường mục tiêu, thay vì các mục tiêu phát triển chung chung, không theo thị trường.
- Trên phương diện quốc tế, khi tham gia các cơ chế hợp tác WTO, TPP và các cơ chế hợp tác quốc tế khác, chúng ta phải mở cửa hơn nữa thị trường nghệ thuật, nhất là thị trường băng đĩa, tổ chức sự kiện thời trang, người mẫu…Tính canh tranh sẽ mạnh mẽ hơn, cũng như đòi hỏi chúng ta phải hiểu luật và các thể chế thị trường, bảo đảm hơn nữa bảo hộ quyền tác giả và quyền có liên quan trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN ĐẾN NĂM 2020, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2030
I. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG
1. Từng bước hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực của ngành nghệ thuật biểu diễn để sản xuất, phổ biến nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng, giáo dục, thẩm mỹ và giải trí nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của nhân dân, hướng tới mục tiêu xây dựng và phát triển toàn diện con người Việt Nam, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước và hội nhấp quốc tế.
2. Gắn với thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến 2020, bảo đảm phù hợp với các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng và nâng cấp xây mới các công trình văn hóa đã được phê duyệt.
3. Phát huy thế mạnh của nghệ thuật biểu diễn Việt Nam, bảo đảm phù hợp với đặc điểm của từng vùng, địa phương, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng phát triển của nghệ thuật biểu diễn thế giới. Phấn đấu bảo đảm sự công bằng hợp lý trong hưởng thụ nghệ thuật biểu diễn giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn. Tăng năng lực sản xuất, phổ biến của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn trong nước tại hệ thống rạp và trên sóng truyền hình cả nước.
4. Tận dụng hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật và phát huy khả năng nguồn nhân lực nghệ thuật biểu diễn hiện có; bố trí ngân sách đầu tư phát triển có trọng tâm, trọng điểm vào các vùng, miền trên phạm vi cả nước theo những dự án cụ thể; huy động mọi nguồn lực xã hội để phát triển nghệ thuật biểu diễn nhằm thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực và châu lục.
5. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động nghệ thuật biểu diễn, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực nghệ thuật biểu diễn dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật.
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu tổng quát
Phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam theo định hướng dân tộc, hiện đại dựa trên các tiềm năng phát triển của vùng và cả nước; phát huy tiềm năng sáng tạo của các đơn vị nghệ thuật, các tập thể, cá nhân, đẩy mạnh tiến trình “xã hội hóa” hoạt động biểu diễn nghệ thuật, phát triển nguồn nhân lực và hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành và từng vùng; phấn đấu đến 2020 có những nghệ sĩ tiêu biểu, có nhiều tác phẩm đỉnh cao trên cơ sở bảo tồn và phát huy nghệ thuật truyền thống, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nghệ thuật thế giới. Từng bước phấn đấu xây dựng nghệ thuật biểu diễn Việt Nam trở thành nền nghệ thuật biểu diễn mạnh trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á.
2. Mục tiêu cụ thể
a) Đến năm 2020:
Hoàn thành công tác quy hoạch hệ thống các đơn vị nghệ thuật trên toàn quốc phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, đặc trưng văn hoá, nhu cầu hưởng thụ văn học nghệ thuật của nhân dân ở từng địa phương trên cơ sở coi trọng việc bảo tồn và phát huy các giá trị của nghệ thuật truyền thống; tiếp thu có chọn lọc tinh hoa nghệ thuật của cộng đồng quốc tế.
- Hoàn thiện việc xây dựng hệ thống chính sách về Nghệ thuật biểu diễn để phù hợp với sự phát triển của xã hội và khuyến khích sức sáng tạo của văn nghệ sĩ.
- Xây dựng đội ngũ các nhà biên kịch, đạo diễn, thiết kế mỹ thuật, nhạc sĩ, họa sĩ, diễn viên, chuyên gia kỹ thuật công nghệ, nhà lý luận phê bình, nhà sản xuất, nhà quản lý được đào tạo bài bản, chuyên sâu, có đủ trình độ và năng lực để phát triển nền nghệ thuật biểu diễn Việt Nam dân tộc, hiện đại và nhân văn.
- Hoàn thành cơ bản việc xây dựng hệ thống thiết chế, cơ sở vật chất, kỹ thuật phù hợp với sự phát triển của kỹ thuật công nghệ tổ chức và sản xuất các chương trình, tác phẩm thuộc lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, đẩy mạnh khía cạnh thương mại và nâng cao chất lượng hiệu quả kinh tế - xã hội của nghệ thuật biểu diễn. Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật để Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh trở thành ba trung tâm nghệ thuật biểu diễn lớn ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.
- Khắc phục sự chênh lệch về hưởng thụ nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt là sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn; đầu tư xây dựng 10% số lượng nhà hát cho các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa có địa điểm biểu diễn nghệ thuật. Xây dựng cơ chế và phối hợp chặt chẽ với Đài Truyền hình Việt Nam và Đài Truyền hình các địa phương, Đài Tiếng nói Việt Nam để sản xuất và phổ biến các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn nhằm tăng tỷ lệ tác phẩm được biểu diễn và phát sóng.
b) Phấn đấu đến năm 2030:
- Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam có đội ngũ sáng tác, sản xuất mạnh trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á, trong đó có những tài năng được quốc tế công nhận; có hệ thống các đơn vị nghệ thuật tiêu biểu đại diện cho từng loại hình nghệ thuật, hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, bộ máy, thiết chế; có nguồn nhân lực, phương pháp sáng tạo và tác phẩm đạt chất lượng cao.
- Quy hoạch, trang bị hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đồng bộ đảm bảo sự phát triển thế mạnh của từng vùng, chú trọng phát triển các sản phẩm và dịch vụ thuộc ngành công nghiệp biểu diễn ở tầm khu vực và quốc tế.
Phần thứ hai
III. NỘI DUNG QUY HOẠCH
A. Đến năm 2020
1. Quy hoạch vùng phát triển nghệ thuật biểu diễn đến năm 2020
Định hướng chung là phát triển các vùng nghệ thuật biểu diễn dựa trên tiềm năng sẵn có, bản sắc văn hoá, của vùng, trên cơ sở định hướng phát triển văn hóa và du lịch vùng đến 2020, nhằm bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống gắn với không gian văn hóa, phát triển các loại hình nghệ thuật đỉnh cao để hội nhập quốc tế.
1.1. Vùng Bắc Bộ
- Trọng điểm phát triển của vùng là bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật: ca trù, hát xoan, quan họ, chèo, kịch nói, giao hưởng, opera và ballet; phát triển các chương trình ca múa nhạc và tạp kỹ hiện đại; sản xuất các sự kiện nghệ thuật biểu diễn lớn, có chất lượng cao.
- Các địa phương đảm bảo tổ chức hoạt động nghệ thuật biểu diễn tại các điểm diễn cố định và lưu động phục vụ đồng bào ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn.
Tập trung đầu tư cho sáng tác các tác phẩm và tổ chức các sự kiện nghệ thuật biểu diễn có chất lượng cao.
- Đầu tư, hỗ trợ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho các cơ sở đào tạo thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ.
- Cải tạo, nâng cấp các nhà hát, trung tâm biểu diễn nghệ thuật hiện có nhằm đáp ứng việc phục vụ nhu cầu thưởng thúc nghệ thuật của khán giả.
1.2. Trung Bộ
a) Địa bàn trọng điểm phát triển nghệ thuật biểu diễn
- Trọng điểm phát triển của vùng là bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật tuồng, bài chòi, ca Huế, cồng chiêng Tây Nguyên, gắn với các trung tâm có các khu di tích văn hóa thế giới và quốc gia đã được UNESCO và Nhà nước công nhận là di sản thế giới và di sản quốc gia; sản xuất các sự kiện nghệ thuật biểu diễn lớn, có chất lượng cao tại các đô thị du lịch lớn như Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Các tỉnh thành Nam duyên hải miền Trung là trung tâm nghệ thuật biểu diễn với loại hình Tuồng và bài chòi, các tỉnh Tây Nguyên với nghệ thuật cồng chiêng; bảo tồn và phát huy các loại hình dân ca - dân vũ của tộc người Chăm, các tộc người dọc dãy Trường Sơn; tập trung sản xuất và phổ biến các sản phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn trong khu vực, gắn với vùng du lịch thu hút khách đông nhất nước.
Hình thành một số tỉnh, thành phố là vệ tinh hỗ trợ phát triển trung tâm nghệ thuật biểu diễn Trung Bộ.
- Các địa phương đảm bảo hoạt động phổ biến các tác phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn tại các điểm cố định và lưu động phục vụ đồng bào ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn; Thực hiện các dịch vụ cung cấp bối cảnh làm các sản phẩm nghe nhìn về nghệ thuật biểu diễn.
b) Các lĩnh vực tập trung đầu tư phát triển
- Sản xuất các tác phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn
+ Xây dựng đề án nâng cao năng lực sáng tác và sản xuất cho các nhà hát trực tuồng của thành phố Đà Nẵng, của các tỉnh có di sản nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu của vùng nhằm cung cấp cho vùng những tác phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn có quy mô và chất lượng nghệ thuật cao.
+ Định hướng và quy hoạch lại các loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống và hiện đại cho Festival Huế, nhằm nâng cấp chất lượng các chương trình nghệ thuật biểu diễn tại đây theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế, để cho Festival Huế thực sự là cầu nối nghệ thuật biểu diễn Việt Nam với thế giới.
- Phát hành, phổ biến tác phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn
+ Quy hoạch, sắp xếp, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật đối với tỉnh Thừa Thiên Huế để có đủ không gian tổ chức các sự kiện nghệ thuật biểu diễn tại festival Huế, đáp ứng nhu cầu dịch vụ kỹ thuật trong tổ chức sự kiện nghệ thuật biểu diễn quốc tế
+ Phát triển festival pháo hoa quốc tế Đà Nẵng thành thương hiệu quốc gia về nghệ thuật biểu diễn ánh sáng. Xây dựng thành phố Nha Trang thành nơi tổ chức các sự kiện thi hoa hậu quốc tế tại Việt Nam.
+ Xây dựng mới 1 nhà hát với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Thực hiện các dịch vụ cung cấp bối cảnh làm các sản phẩm nghe nhìn về nghệ thuật biểu diễn.
+ Cải tạo nâng cấp 5 nhà hát, trung tâm biểu diễn nghệ thuật hiện có nhằm nâng cấp trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và cơ sở hạ tầng.
+ Đầu tư trang thiết bị phù hợp cho một số nhà hát, đoàn nghệ thuật có khả năng thực hiện tổ chức biểu diễn ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn.
1.3. Nam Bộ
a) Địa bàn trọng điểm phát triển nghệ thuật biểu diễn
- Trọng điểm phát triển của vùng là bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật đờn ca tài từ, cải lương, gắn với các trung tâm đô thị và du lịch lớn; bảo tồn và phát huy nghệ thuật biểu diễn truyền thống của tộc người Khmer, người Hoa; sản xuất các sự kiện nghệ thuật biểu diễn hiện đại có chất lượng cao tại các đô thị du lịch trong vùng
- Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm nghệ thuật biểu diễn phía Nam, trung tâm hội nhập quốc tế về nghệ thuật biểu diễn; tập trung đào tạo nguồn nhân lực; phát triển sản xuất, phát hành và phổ biến các tác phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn; nghiên cứu khoa học và lưu trữ nghệ thuật biểu diễn; trung tâm tổ chức các sự kiện thời trang, thi người đẹp trong nước và quốc tế; trung tâm ghi âm về nghệ thuật biểu diễn của cả nước
- Hình thành các vệ tinh có chức năng hỗ trợ phát triển trung tâm nghệ thuật biểu diễn Nam Bộ, trong đó trọng tâm bảo tồn và phát huy tiềm năng nghệ thuật biểu diễn truyền thống của người Việt, người Hoa, Chăm, Khmer và các tộc người khác.
- Các địa phương đảm bảo hoạt động phổ biến các tác phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn tại các điểm cố định và lưu động phục vụ đồng bào ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn; Thực hiện các dịch vụ cung cấp bối cảnh làm các sản phẩm nghe nhìn về nghệ thuật biểu diễn.
b) Các lĩnh vực tập trung đầu tư phát triển
- Sản xuất sản phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn:
+ Xây dựng đề án nâng cao năng lực sản xuất sản phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn của một số nhà hát và đơn vị nghệ thuật thuộc thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành thuộc Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long.
+ Đầu tư xây mới 1 Trung tâm biểu diễn nghệ thuật hiện đại tại thành phố Hồ Chí Minh với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại; diện tích đất xây dựng trung tâm là 50 ha; đầu tư theo cơ chế xã hội hóa là chủ yếu, Nhà nước hỗ trợ đầu tư một số hạng mục ban đầu.
- Đào tạo nguồn nhân lực
+ Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang thiết bị dạy học cho các khoa thuộc loại hình sân khấu tại Đại học Sân khấu - Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh, để trường thành trung tâm đào tạo có chất lượng cao cho ngành.
- Phát hành, phổ biến tác phẩm và sự kiện nghệ thuật biểu diễn
+ Quy hoạch, sắp xếp, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật đối với thành phố Hồ Chí Minh để có đủ không gian tổ chức các sự kiện nghệ thuật biểu diễn tại quốc tế, các sự kiện ngoài trời, đáp ứng nhu cầu dịch vụ kỹ thuật trong tổ chức sự kiện nghệ thuật biểu diễn ở tầm quốc tế.
+ Cải tạo, nâng cấp các trung tâm biểu diễn nghệ thuật hiện đại của vùng, đảm bảo yêu cầu tổ chức Liên hoan nghệ thuật quốc gia và quốc tế. Nghiên cứu và phát triển một số festival nghệ thuật tại một số tỉnh thành trong vùng thành thương hiệu vùng. Lựa chọn và xây dựng một số trung tâm bảo tồn và phát huy nghệ thuật đờn ca tài tử của vùng.
+ Xây dựng mới 1 nhà hát với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. Thực hiện các dịch vụ cung cấp bối cảnh làm các sản phẩm nghe nhìn về nghệ thuật biểu diễn.
+ Cải tạo nâng cấp 5 nhà hát, trung tâm biểu diễn nghệ thuật hiện có nhằm nâng cấp trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và cơ sở hạ tầng.
+ Đầu tư trang thiết bị phù hợp cho một số nhà hát, đoàn nghệ thuật có khả năng thực hiện tổ chức biểu diễn ở miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn.
2. Cơ chế chính sách
Định hướng xây dựng các cơ chế quản lý nhà nước về nghệ thuật b
Bình luận